Trong nghiên cứu được các nhà khoa học Ana Paula Anzolin, MD, Níncia Lucca da Silveira-Kaross, and Charise Dallazem Bertol công bố trên Medical Gas Research vào đầu năm 2020, dầu ozone hóa nói riêng và liệu pháp ozone nói chung đã được chỉ ra có khả năng mang lại hiệu quả điều trị viêm nhiễm và vết thương hiệu quả với nhiều ưu điểm vượt trội.
Tình trạng viêm là gì?
Phản ứng viêm đại diện cho một cơ chế hoạt động được kích hoạt để giữ cho tổn thương tiến triển, chống lại sự tấn công của mầm bệnh và sửa chữa các mô bị tổn thương. Bất chấp những khó chịu về thể chất (chẳng hạn như sốt), tình trạng viêm thường có lợi và cho phép chúng ta đối phó với sự xâm hại của các yếu tố độc hại bên ngoài
Quá trình này phức tạp và liên quan đến các tế bào và phân tử chủ như protein, yếu tố phiên mã và chất trung gian hóa học để loại bỏ nguyên nhân ban đầu gây tổn thương tế bào hoặc các tế bào và mô hoại tử do tổn thương ban đầu và sau đó kích hoạt quá trình sửa chữa.
Tình trạng viêm được phân thành 2 loại là cấp tính và mãn tính. Cấp tính là một phản ứng nhanh và tồn tại trong thời gian ngắn và nó được ‘thiết kế’ để vận chuyển bạch cầu và protein huyết tương đến vị trí tổn thương. Các tác nhân kích thích gây tổn thương cấp tính là nhiễm trùng, chấn thương, tác nhân vật lý và hóa học, hoại tử mô, dị vật và phản ứng miễn dịch.
Tình trạng viêm mãn tính kéo dài lâu hơn và có thể diễn biến trong nhiều tuần, nhiều tháng hoặc nhiều năm. Nó được đặc trưng bởi sự xâm nhập vào mô bị viêm của tế bào lympho và đại thực bào và bởi sự tăng sinh của các mạch máu tại chỗ. Tình trạng viêm được kích hoạt và dẫn đến phá hủy các mô bị ảnh hưởng. Ngược lại với sự phá hủy mô, quá trình sửa chữa vùng xảy ra, nhưng mô bị tổn thương do loại viêm này không được tái tạo hoàn toàn và kết quả của quá trình lành vết thương là xơ hóa.
Những lợi ích của liệu pháp ozone trong lĩnh vực y tế
Khí ozone vô tình được phát hiện lần đầu vào năm 1840 tại Thụy Sĩ bởi Christian Friedrich Schobein khi ông làm việc với dòng điện cao áp với sự có mặt của oxy và chứng kiến phản ứng phóng điện giữa 2 yếu tố này tạo nên một loại khí có mùi khó chịu.
Năm 1854, Werner Von Siemens chế tạo máy tạo ozone đầu tiên. Vào thời điểm đó, người ta đã biết rằng ozone không ổn định, phải được sản xuất rồi mới sử dụng. Với việc chế tạo máy tạo ozone, chất khí này bắt đầu được ứng dụng rộng rãi trong lĩnh vực công nghiệp hoặc thậm chí để làm sạch nước, và diệt vi khuẩn.
Từ đầu thế kỷ 20, ozone châu Âu sử dụng để xử lý nước uống. Nó được chứng minh mang lại hiệu quả làm sạch nước tương đương với clo.
Payr, một bác sĩ người Áo, Fisch, một nha sĩ Thụy Sĩ, và Wolff, một bác sĩ người Đức là những người tiên phong trong nghiên cứu lâm sàng liên quan đến ozone, mặc dù những quan sát của họ chỉ mang tính thực nghiệm. Trải qua nhiều thập kỷ, hiện nay, nhiều nghiên cứu khoa học đã chứng minh ozone có thể mang lại vô số lợi ích trong việc điều trị vết thương, ứng dụng trong lĩnh vực nha khoa, khử trùng, điều trị thoát vị đĩa đệm và viêm gan C,…
Việc sử dụng ozone bắt đầu trong điều trị bệnh lao, sau đó là sử dụng nó trong các phòng khám nha khoa và điều trị chứng hoại thư. Bác sĩ phẫu thuật Payr là người đầu tiên đưa ozone vào cơ thể người bệnh để điều trị thông qua đường trực tràng.
Ozone có khả năng hỗ trợ loại bỏ vi khuẩn, vi rút và ký sinh trùng cũng như màng sinh học. Trong bối cảnh này, người ta cho rằng việc tiêm tĩnh mạch hỗn hợp khí gồm O2 và O3 vào nhiễm trùng huyết do vi khuẩn ở bệnh nhân nhiễm HIV sẽ làm bất hoạt mầm bệnh và sẽ chữa khỏi bệnh.
Theo đó, khi O3 được ứng dụng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe và điều trị, liệu pháp ozone được chứng minh có thể làm tăng quá trình oxy hóa mô, kích thích sản xuất các chất chống oxy hóa nội sinh và gây ra tác dụng ức chế miễn dịch (với sự kích thích giải phóng oxytocin) trong hệ tuần hoàn.
Liệu pháp ozone hoạt động bằng cách oxy hóa trực tiếp và tạo ra các phản ứng làm bất hoạt vi sinh vật hoặc chất trung gian giảm đau và bằng cách kích hoạt tác nhân hạt nhân (Nrf2 hoặc yếu tố hạt nhân kappa B (NF-κB)) tạo ra phản ứng dược lý. Các kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, ở liều thấp, ozone kích thích các con đường bảo vệ tế bào mà không làm thay đổi khả năng sống của tế bào và ozone ở liều cao có thể gây độc gen.
Trong điều trị viêm mãn tính liệu pháp ozone thúc đẩy quá trình chữa lành vết thương bằng phương pháp tiếp xúc trực tiếp thông qua hấp khí và hoặc bôi dầu ozone hóa.
Xem thêm: 7 công dụng của liệu pháp ozone trong điều trị chấn thương
Hiệu quả của dầu ozone hóa trong điều trị viêm nhiễm mãn tính
Tại sao nên sử dụng dầu ozone hóa
Mục đích của dầu ozone hóa là tạo ra các công thức chứa ozon với độ ổn định tốt hơn để tạo thuận lợi cho việc xử lý, bảo quản và dễ dàng sử dụng hơn trong các liệu trình điều trị ngoài bệnh viện và giảm các tác hại tiềm tàng khi sử dụng O3 dạng khí.
Ngay sau khi được cấp bằng sáng chế cho máy tạo ozone đầu tiên của mình, Nikola Tesla (năm 1900) bắt đầu tiếp thị dầu ô liu ozone hóa cho các bác sĩ y khoa. Nikola Tesla đã tạo ra dầu ozon hóa bằng cách làm sủi bọt khí ozone thông qua dầu ô liu nguyên chất trong điều kiện có từ trường trong 8 tuần. Trong quá trình này, ozone phản ứng với liên kết đôi của axit béo có trong dầu thực vật, tạo thành ozonide đặc biệt (1,2,4-trioxolanes) và peroxit như hydroperoxide, H2O2, peroxit polymer và peroxit hữu cơ khác.
Dầu ozone hóa thực vật đầu tiên, được gọi là OLEOZON®, đã được Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia ở Cuba đăng ký làm sản phẩm thuốc cho mục đích trị liệu bằng đường uống và bôi ngoài da.
Lợi ích của dầu ozone hóa trong điều trị viêm
Trong một nghiên cứu về độc tính, OLEOZON® không cho thấy nguy cơ gây tử vong hoặc độc tính. Các con vật thể hiện hành vi bình thường, không có sự thay đổi lớn ở bất kỳ cơ quan nhu mô nào ở cả hai nhóm (điều trị và đối chứng). OLEOZON® không được phân loại là chất có độc tính cấp tính và độ an toàn của nó lớn hơn 2000 mg/kg trọng lượng cơ thể.
Dầu ozone hóa khi được ứng dụng trong y tế cho thấy hiệu quả điều trị sớm đối với các vết viêm. Theo đó, Hiệu quả điều trị của dầu ô liu ozone hóa tại chỗ đã được đánh giá trong việc chữa lành các vị trí phẫu thuật ghép nướu. Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, được thực hiện trên 20 bệnh nhân được chia thành 2 nhóm (điều trị: dầu ozone hóa hoặc đối chứng: dầu ô liu không ozone hóa) . Họ được đánh giá sau phẫu thuật bằng phân tích tế bào học khi bắt đầu nghiên cứu, sau 24 giờ, 3, 7, 14 và 21 ngày và 2, 3, 8 và 18 tháng.
Kết quả cho thấy, có sự cải thiện đáng kể trong việc chữa lành biểu mô ở thời điểm 7, 14 và 21 ngày, cũng như ở thời điểm 2, 3 và 8 tháng ở nhóm dùng dầu ozone hóa. Hiệu quả của việc bôi dầu ozone hóa tại chỗ tại các vị trí phẫu thuật nướu đã được chứng minh. Dầu ozone hóa đã cho thấy được khả năng thúc đẩy sự cải thiện đáng kể trong việc chữa lành biểu mô vết thương nướu so với nhóm đối chứng.
Một nghiên cứu khác đã chứng minh dược tác dụng của dầu hoa trà ozone hóa trong điều trị bệnh viêm da dị ứng. Theo đó, Mười tám con chuột bị thương ở lưng và được điều trị bằng dầu ozone hóa. Dầu ozone hóa ức chế tình trạng viêm đáng kể và chữa lành các tổn thương trong vòng 7 ngày. Do đó, dầu ozone hóa có thể ngăn chặn tình trạng viêm trong viêm da dị ứng, chứng tỏ đây có thể là một phương pháp điều trị tiềm năng cho căn bệnh này.
Trong các vết thương ngoài da cấp tính của chuột lang, dầu ozone hóa đã cải thiện đáng kể quá trình chữa lành.
Trong số các báo cáo nghiên cứu được các tác giả đưa ra, một số nghiên cứu cho thấy dầu ozone hóa có hiệu quả trong việc chữa lành vết thương ở da. Tuy nhiên, một số nghiên cứu đánh giá dầu ozone hóa vẫn có những hạn chế khi sử dụng cho con người.
Với nghiên cứu này, các tác giả kết luận, các phương pháp điều trị sử dụng ozone bôi tại chỗ ở dạng khí hoặc dầu đều mang lại hiệu quả sửa chữa mô, vì nó thúc đẩy quá trình lành vết thương và có đặc tính kháng khuẩn, miễn dịch, chống oxy hóa và oxy hóa.
Hiệu quả của dầu ozone hóa có thể là một liệu pháp tổng hợp trong điều trị các tổn thương mô, đặc biệt ở những bệnh nhân có bệnh lý như đái tháo đường, xơ vữa động mạch và trong quá trình lão hóa. Đối với các bệnh như loét hoặc viêm miệng dị ứng, viêm nướu và viêm da, dầu ozon hóa hỗ trợ giảm đau và đẩy nhanh quá trình chữa lành. Tuy nhiên, một số nghiên cứu cho thấy những hạn chế trong phương pháp luận, không có ngẫu nhiên, mù đôi hoặc tính toán mẫu, chứng tỏ sự cần thiết phải có các nghiên cứu lâm sàng tiếp theo để xác nhận hiệu quả của ozone khi được tiếp xúc trực tiếp với vết thương.
Hỗ trợ biên dịch: BS PHAN THANH HÀO – CHỦ TỊCH CHI HỘI CHỐNG LÃO HOÁ – Hội Tế bào Gốc TP. HCM
Nguồn: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC7871935/