Một nghiên cứu về Liệu pháp Ozone trong điều trị nhiễm trùng khớp được 3 chuyên gia thuộc Hiệp hội Trị liệu Oxy-Ozone Ý (SIOOT) công bố năm 2019 đã cho thấy tương lai hứa hẹn về việc sử dụng Liệu pháp Ozone cả trong phòng ngừa và điều trị nhiễm trùng khớp sau phẫu thuật.
Việc ngăn ngừa nhiễm trùng vết mổ là ưu tiên hàng đầu trong các mục tiêu của hệ thống y tế. Hậu quả tiêu cực của nhiễm trùng sau phẫu thuật (tỷ lệ mắc bệnh, thời gian nằm viện, tỷ lệ tử vong) là những biến cố đặc biệt nghiêm trọng đối với từng bệnh nhân và cộng đồng. Từ nguồn lực phúc lợi cần thiết để điều trị cho họ đến sự gia tăng liên tục của hiện tượng kháng kháng sinh.
Do đó, một nghiên cứu về Liệu pháp Ozone trong nhiễm trùng khớp đã được 3 chuyên gia thuộc Hiệp hội Trị liệu Oxy-Ozone Ý (SIOOT) công bố trên trang pagepressjournals.org năm 2019. Nghiên cứu này cho thấy tương lai hứa hẹn về việc sử dụng Liệu pháp Ozone cùng với liệu pháp kháng sinh, cả trong phòng ngừa và điều trị nhiễm trùng để tránh sự xuất hiện của tình trạng kháng kháng sinh và do đó giảm chi tiêu của hệ thống y tế.
Nguy cơ nhiễm trùng trong phẫu thuật khớp
Ở lĩnh vực phẫu thuật chỉnh hình, hầu hết các tình trạng nhiễm trùng xảy ra trong hoặc ngay sau khi phẫu thuật do vết thương phẫu thuật bị hỏng hoặc bị nhiễm trùng. Trong đó, nhiễm trùng khớp phát triển muộn sau khi cấy ghép bộ phận giả bằng cách tiêm trực tiếp hoặc khuếch tán theo đường máu thường ít gặp hơn.
Khởi phát nhiễm trùng có thể là các triệu chứng cấp tính như sốt, đau và các dấu hiệu viêm cục bộ. Ngoài ra, khi liên quan đến các vi khuẩn ít độc lực hơn như bạch hầu hoặc liên cầu khuẩn coagulase âm tính, nhiễm trùng có thể tồn tại trong nhiều tháng hoặc nhiều năm mà không gây ra các triệu chứng đáng kể.
Các bệnh nhiễm trùng ít triệu chứng này thường xảy ra trong quá trình cấy ghép bộ phận giả và được phát hiện trong quá trình đánh giá cơn đau mãn tính không giải thích được và sau khi phát hiện bộ phận giả bị bong ra trên phim chụp X quang.
Để ngăn ngừa hậu quả tai hại của nhiễm trùng, những bệnh nhân phù hợp để cấy ghép khớp giả phải được lựa chọn và chuẩn bị cẩn thận. Trên thực tế, tần suất nhiễm trùng đặc biệt cao ở những bệnh nhân bị viêm khớp dạng thấp, đái tháo đường, ở những đối tượng trước đây đã trải qua phẫu thuật khớp và ở những người mắc các bệnh cần sử dụng thuốc ức chế miễn dịch.
Tất cả các biện pháp như sát trùng trước phẫu thuật để giảm lượng vi khuẩn trên da, duy trì lượng đường trong máu ở mức <200 mg/dL trong thời gian chu phẫu, dự phòng bằng kháng sinh đã giúp giảm tần suất nhiễm trùng sau phẫu thuật ở nhiều trung tâm xuống dưới 1%.
Nhưng vẫn còn nhiều việc phải làm ngay lập tức để đảm bảo rủi ro ít nhất có thể cho bệnh nhân, vì dù nguy cơ nhiễm trùng là 1% nhưng khi xảy ra sẽ để lại hậu quả nghiêm trọng và tàn khốc cho bệnh nhân và hệ thống y tế quốc gia. Đây chính là lúc Liệu pháp Ozone phát huy tác dụng.
Ozone và Liệu pháp Ozone trong điều trị nhiễm trùng
Ozone (O3) là một dạng oxy đẳng hướng, bao gồm ba nguyên tử oxy, thường được tạo ra bởi hệ thống miễn dịch của tất cả các sinh vật sống. Ozone được phát hiện vào năm 1840 và được sử dụng để khử trùng trong hơn một trăm năm qua.
Đã có báo cáo rằng ozone có thể được sử dụng như một chất diệt khuẩn dưới nhiều hình thức khác nhau, ví dụ: dung dịch muối ozone hóa, nước ozone hóa, dầu ozone hóa và phổ biến hơn là hỗn hợp O2/O3. Nhiều nghiên cứu về liệu pháp oxy-ozone đã chứng minh rằng, ozone khi được sử dụng trong ống nghiệm có thể tiêu diệt tất cả các loại vi khuẩn, cả gram dương và gram âm.
Liệu pháp Ozone là một liệu pháp dựa trên việc cung cấp một lượng ozone nhất định vào cơ thể thông qua các kỹ thuật khác nhau. Đối với một số bệnh, việc ứng dụng ozone y tế đã thu được nhiều kết quả điều trị quan trọng, nhờ các tác dụng sau của ozone:
- Kích hoạt lại vi tuần hoàn, tăng lượng oxy cung cấp cho các mô và giảm độ nhớt của máu;
- Tác dụng chống oxy hóa;
- Tác dụng chống viêm, giảm đau và giãn cơ;
- Tác dụng kháng khuẩn, diệt nấm và bất hoạt virus.
Lý do khiến ozone có khả năng vô hiệu hóa virus và vi khuẩn nằm ở khả năng oxy hóa cao của nó. Đặc biệt, nhờ tác dụng thứ hai, ozone đã được đưa vào ứng dụng trong lĩnh vực truyền nhiễm, đặc biệt là lĩnh vực kháng kháng sinh.
Tình trạng Kháng kháng sinh trong điều trị nhiễm trùng
Kháng kháng sinh là khả năng vi sinh vật chống lại tác động của một hoặc nhiều chất chống vi trùng. Tình trạng này là một trong những hạn chế lớn nhất trong hóa trị liệu kháng khuẩn hiệu quả.
Các bệnh nhiễm trùng dai dẳng đòi hỏi một chu kỳ điều trị lặp lại kéo dài (ít nhất 4 tháng) với sự kết hợp của nhiều loại kháng sinh. Thế nhưng, hiệu quả của kháng sinh bị suy yếu do số lượng mầm bệnh kháng kháng sinh ngày càng tăng và có liên quan đến tần suất tử vong và bệnh tật cao cũng như tăng chi phí điều trị. Do đó, kháng kháng sinh được coi là một trong những mối đe dọa lớn đối với sức khỏe cộng đồng toàn cầu.
Tác dụng của Liệu pháp Ozone trong điều trị nhiễm trùng khớp
Năm 2019, một nghiên cứu về Liệu pháp Ozone trong điều trị nhiễm trùng khớp được thực hiện tại phòng khám trị liệu bằng oxy-ozone ngoại trú ở tỉnh Bergamo, Ý bởi 3 chuyên gia thuộc Hiệp hội Trị liệu Oxy-Ozone Ý (SIOOT). Các bệnh nhân bắt đầu điều trị bằng ozone sau khi không thể chữa khỏi nhiễm trùng bằng nhiều chu kỳ kháng sinh phổ rộng.
Cụ thể, ba bệnh nhân được chọn trong nghiên cứu này đã trải qua các ca phẫu thuật chỉnh sửa bộ phận giả và không thể thực hiện phẫu thuật mới được nữa. Trong đó, có một bệnh nhân được thay khớp vai bằng khớp giả, một bệnh nhân trải qua hai ca phẫu thuật chỉnh sửa khớp vai trái và bệnh nhân thứ ba đến phòng khám ngoại trú sau bốn ca phẫu thuật chỉnh hình đầu gối trái.
Tất cả các trường hợp đều được sử dụng liệu pháp truyền máu tự động với nồng độ từ 30 đến 50 microgam. Số lần truyền máu tự động thay đổi từ tối thiểu 3 phiên đến tối đa là 30 phiên. Bệnh nhân cũng được điều trị bằng cách tiêm dưới da hỗn hợp oxy-ozone vào vùng tổn thương da, với nồng độ 2-3 microgam cho mỗi lần tiêm vi mô 5/10cc. Họ được tiêm 100 đến 150 cc mỗi chi.
Bên cạnh đó, 2 bệnh nhân được điều trị bằng phương pháp bơm oxy-ozone vào trực tràng, với nồng độ từ 20 đến 30 microgam và lượng 150cc mỗi lần. Những bệnh nhân có tổn thương loét da lan xuống chi dưới kèm theo đau đớn và mất chất đáng kể cũng được điều trị bằng khoang áp suất nhẹ, với thời gian trị liệu khoảng 15 phút cho mỗi chi.
Tác dụng của liệu pháp ozone trong điều trị nhiễm trùng khớp, thông qua quá trình truyền máu tự động (GAE) và tiêm dưới da, được thể hiện bằng hiệu quả khử trùng đáng kể. Có thể thấy rõ sự biến mất hoàn toàn của vi trùng liên quan đến bệnh nhiễm trùng trong quá trình nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu
Kết quả cho thấy, việc áp dụng liệu pháp ozone ngăn ngừa tình trạng tổn thương da trở nên trầm trọng hơn và cải thiện khả năng chữa lành các mô bị nhiễm trùng. Hơn nữa, khi sử dụng ozone với phương pháp tự truyền, tình trạng nhiễm trùng của bệnh nhân sẽ được cải thiện với kết quả tối ưu về các giá trị CRP và ESR.
Mặt khác, các tác giả cũng đã đánh giá việc tăng lên 2-3 buổi trị liệu bằng oxy-ozone hàng tuần có thể mang lại kết quả tốt hơn so với chỉ điều trị một buổi mỗi tuần, vì nó có thể duy trì các yếu tố miễn dịch cao. Thêm nữa, khi sử dụng nồng độ ozone trung bình, khoảng 40-50 microgam, sẽ nhận được phản ứng tốt nhất từ hệ thống miễn dịch.
Cũng cần lưu ý rằng, một bệnh nhân tham gia liệu pháp ozone đang mắc bệnh bạch cầu bạch huyết mãn tính và các kiểm tra đều không cho thấy tình trạng bệnh trở nặng hơn. Do đó, việc điều trị không bị chống chỉ định khi hệ thống tạo máu có các bệnh lý như vậy.
Tuy nhiên vẫn cần thêm các nghiên cứu có quy mô lớn và chuyên sâu hơn về đề tài này để có những đánh giá đầy đủ và khách quan nhất trước khi ứng dụng Liệu pháp ozone trong điều trị nhiễm trùng khớp.
Hỗ trợ biên dịch: BS PHAN THANH HÀO – CHỦ TỊCH CHI HỘI CHỐNG LÃO HOÁ – Hội Tế bào Gốc TP. HCM